Ung thư tuyến giáp là một bệnh tương đối phổ biến, theo thống kê có thể gặp từ 5-15% dân số tuỳ theo từng nghiên cứu. Biểu hiện các triệu chứng thường nghèo nàn, vì thế ung thư tuyến giáp trước đây hay bị phát hiện muộn, khi khối u đã di căn tới hạch, các bộ phận kế cận thậm chí di căn xa.
Mục Lục
Sự phát triển của ung thư tuyến giáp
Ung thư tuyến giáp có tốc độ phát triển rất chậm với thời gian nhân đôi trên 1 năm, tiến triển tự nhiên trong nhiều thập kỉ.
Theo nghiên cứu, ung thư tuyến giáp phát triển tại chỗ, xâm lấn vỏ bao tuyến giáp và các cấu trúc xung quanh như thực quản, khí quản, thanh quản, xâm nhiễm da.
Đối với giai đoạn di căn, ung thư tuyến giáp có nhiều loại mô học khác nhau, với mỗi loại thường có vị trí di căn khác nhau.
- Ung thư thể nhú thường di căn hạch vùng, có thể di căn sớm ngay cả khi khối u còn nhỏ, khoảng 40% có di căn hạch vùng ở thời điểm chẩn đoán. Di căn xa theo đường máu chiếm khoảng 10% và có từ 1 – 2% di căn xa ở thời điểm chẩn đoán.
- Ung thư thể nang ít cho di căn hạch cổ, thường di căn xa theo đường máu tới phổi, xương. Theo y văn, di căn hạch gặp 5 – 20% và di căn xa từ 2- 5% ở thời điểm chẩn đoán.
- Ung thư thể tủy cho di căn theo cả hai đường mạch máu và bạch huyết.
- Ung thư thể không biệt hóa là loại u ác tính nhất, xâm lấn tại chỗ nhanh, bệnh nhân thường chết sau một thời gian ngắn.
Tái phát tại chỗ : Nguyên nhân của tái phát tại chỗ là sự hoạt động trở lại của tế bào u ban đầu do điều trị không loại bỏ được hoàn toàn
Chẩn đoán mô bệnh học ung thư tuyến giáp
Ung thư tuyến giáp trạng có nhiều loại cấu trúc mô bệnh, ở mỗi loại cấu trúc mô bệnh học có sự phát triển khác nhau. Có thể chia ra các loại như sau:
Ung thư tuyến giáp trạng thể biệt hóa cao:
Đây là loại giải phẫu bệnh phổ biến chiếm khoảng 90%. Ung thư tuyến giáp bao gồm các thể:
- Ung thư tuyến giáp thể nhú: Là loại hay gặp nhất (40-50%). Bệnh tiến triển chậm qua nhiều năm, tiên lượng tốt. Thường bệnh nhân có 1 u nhỏ ở tuyến giáp, không được để ý, đến khi di căn ra hạch cổ mới phát hiện bệnh. Ngay cả ở giai đoạn này, bệnh vẫn có thể chữa trị khỏi bằng phẫu thuật. Nhưng nếu u lớn trên 4-5cm xâm lấn ra xung quanh hoặc di căn xa thì tiên lượng sẽ xấu.
- Ung thư tuyến giáp thể nang: Ít gặp hơn (20-25%). Bệnh thường xảy ra ở vùng thiếu iod và có bướu cổ lưu hành. Bệnh tiến triển chậm như thể nhú, thường có một u nhỏ ở một thùy tuyến giáp, lớn dần lên, hay dính ra vỏ tuyến và đi ra ngoài da vùng trước cổ. Giai đoạn cuối hay di căn theo đường máu, ít di căn hạch. Tiên lượng của thể này kém hơn loại thể nhú.
- Loại kết hợp nhú và nang: Chiếm 20%, tiến triển chậm, tiên lượng như loại thể nhú.
Ung thư tuyến giáp thể không biệt hóa hoặc bất thục sản
Thể này chiếm khoảng 5% các loại ung thư tuyến giáp trạng, hay gặp ở những bệnh nhân lớn tuổi. Loại này tiên lượng xấu, tiến triển nhanh và hay di căn xa, ít bệnh nhân sống trên 5 năm.
Loại ung thư thể tủy
Loại ung thư thể tủy rất ít gặp chiếm khoảng 1-5% xuất phát từ tế bào C (tế bào tiết Calcitonin. Một số ít có tính di truyền. Dạng di truyền được ghi nhận ở loại đa ung thư tuyến nội tiết (MEN-2a) có liên hệ với u tế bào sắc tố thượng thận và cường tuyến cận giáp trạng gia đình.
Dạng di truyền thường thấy u ở cả 2 thùy tuyến giáp, u chắc và cứng, thường ở chỗ phân chia 1/3 trên và 1/3 giữa của thùy tuyến giáp trạng (nơi có nhiều tế bào C).
Loại ung thư này di căn theo cả 2 đường hạch bạch huyết và đường máu. Bệnh tuy tiến triển chậm nhưng tiên lượng kém loại thể nhú và nang. 50% bệnh nhân sống sau 10 năm, nhưng yếu tố làm cho tiên lượng của bệnh trở nên xấu là: tuổi cao, u to, di căn xa.
ung thư tế bào Hurthe cũng ít gặp, chiếm khoảng 2-5% ung thư tuyến giáp trạng. Có thể xuất phát từ tế bào dạng nang, đôi khi tiết chất nhầy và sản xuất Thyroglobulin. Tiên lượng và tiến triển cũng giống như ung thư dạng nang. Giai đoạn cuối cùng xâm lấn vỏ bao và di căn theo đường máu.
Các loại khác
Loại Sarcoma nguyên phát, u lymphô ác tính, hay di căn của nơi khác tới tuyến giáp chiếm dưới 1%. Tiến triển và tiên lượng phụ thuộc vào nguồn gốc của loại bệnh chính.
Tóm lại: Ung thư tuyến giáp là bệnh lý tiên lượng rất tốt, tỉ lệ sống thêm 10 năm trung bình của nhóm biệt hóa khoảng gần 90%. Thể tủy tỉ lệ sống thêm 5 năm khoảng 50% và thể không biệt hóa thời gian sống thêm trung bình từ 6-8 tháng.
Trong điều trị ung thư tuyến giáp, phẫu thuật đóng vai trò quan trọng nhất có tính chất quyết định đến kết quả điều trị. Sau phẫu thuật cắt giáp toàn bộ, bệnh nhân được điều trị bằng I131 và hormon thay thế vừa có tác dụng bổ sung hormon duy trì hoạt động của cơ thể vừa có tác dụng làm giảm nồng độ TSH giúp duy trì bệnh ổn định lâu dài.